Trang chủ Diễn đàn Tin tức Đăng ký Thư viện ảnh Hỏi đáp Video Giới thiệu Liên hệ Đăng nhập Xin chào
Danh mục
Thống kê
Đang online: 675
Truy cập hôm nay: 3,731
Lượt truy cập: 10,289,480
Hỗ trợ trực tuyến
Quảng cáo
Tìn ngưỡng thờ tổ nghề ở Việt Nam

TÍN NGƯỠNG THỜ TỔ NGHỀ Ở VIỆT NAM

 

Thờ tổ nghề là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện sự biết ơn những vị sáng lập, mở mang tri thức ngành nghề cho nhân dân, di dưỡng đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây"...

1. Đôi điều về tín ngưỡng thờ tổ nghề

Tổ nghề (còn gọi là Tổ sư, Thánh sư, Nghệ sư - người phát minh, sáng lập, gây dựng nên một nghề (thường là nghề thủ công mỹ nghệ) hoặc là người thứ nhất đem nghề ở nơi khác truyền lại cho dân chúng trong một làng hay miền nào đó, được người đời sau tôn thờ như bậc thánh. Tổ nghề có thể là nam giới hoặc nữ giới.

Nghề thủ công mỹ nghệ ở nước ta rất phát triển, có truyền thống lâu đời, sản phẩm phong phú, đa dạng về chất liệu, kiểu loại. Có thể kể một số nghề như: Nghề dệt chiếu cói, dệt the, dệt lụa, dệt nhiễu, thêu, thợ may, thợ mộc, nghề kim hoàn, chạm bạc, khảm xà cừ, nghề giấy, nghề mây tre, làm nón, nghề sơn, chạm khắc đá, đúc đồng, nghề gốm.... Những người làm nghề thường ở thành phường nhóm, làng (làng nghề). Biết ơn những vị sáng lập truyền nghề cho mình và di dưỡng đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", họ thờ phụng các vị tổ của nghề mình đang làm. Có thể lập bàn thờ tổ nghề tại gia, và vào ngày tuần tiết, sóc, vọng, giỗ tết, đều có cúng cấp. Nhưng phổ biến hơn cả là các phường nghề, làng nghề lập miếu, đền riêng để thờ tổ nghề riêng của nghề mà phường, làng mình đang làm. Đặc biệt, nhiều vị tổ nghề còn được thờ làm thành hoàng làng.

Trong một năm, lễ cúng tổ nghề quan trọng nhất là nhằm vào ngày kỵ nhật của vị tổ nghề, đối với những vị mọi người đều biết hoặc là một ngày nhất định mà mọi người trong phường, trong làng cùng theo một nghề kể là ngày kỵ nhật của tổ nghề mình.

Thờ phụng tổ nghề, người ta cầu mong Ngài phù hộ cho công việc được suôn sẻ, buôn may bán đắt hoặc lúc đi xa tránh được mọi sự rủi ro. Sau khi công việc có kết quả, người ta làm lễ tạ ơn. Ngày kỵ nhật tổ nghề tại các phường còn gọi là ngày giỗ phường.

2. Các tổ sư ngành nghề

Bà chúa nghề tằm

Thời vua Lê Thánh Tông, một viên quan trong triều khi già về Nghi Tàm mở trường dạy học. Một hôm ra ngắm cảnh hồ, ông bỗng thiu thiu ngủ. Trong mộng, ông lạc vào thiên đình, thấy một vị quan quỳ xuống tâu xin Ngọc Hoàng cho công chúa Quỳnh Hoa xuống đầu thai họ Trần. Ngọc Hoàng chấp thuận, Trần Vĩ được viên quan trao vào tay một cô con gái.

Chẳng bao lâu sau, vợ ông có mang sinh một đứa con gái đúng như trong mộng. Ông bèn đặt tên là Quỳnh Hoa. Lớn lên, Quỳnh Hoa được gả cho Liễu Nghi, tri phủ Hà Trung.

Khi Chiêm Thành sang xâm lược, vợ chồng Liễu Nghi đều ra trận đánh giặc. Thắng trận, vua phong cho Liễu Nghi chức Đô Đài Ngự sử và Quỳnh Hoa là quận phu nhân. Khi Liễu Nghi mất, Quỳnh Hoa xin về Nghi Tàm. Vốn là người thạo việc trồng dâu, nuôi tằm, về Nghi Tàm, bà chuyên tâm lo nghề ấy rồi phổ biến cho dân chúng. Nhờ vậy dân toàn vùng biết nghề này. Sau khi mất, Quỳnh Hoa được tôn là bà chúa nghề tằm, hiện có gần 60 làng thờ bà.

Tổ sư nghề dệt

Ông Nguyễn Diệu, người Ấi Châu, Thanh Hoá, cùng vợ họ Mai tới kinh thành Thăng Long làm ăn buôn bán. Hai vợ chồng cùng nhau mở xưởng dệt, công việc ngày càng phát đạt. Vài năm sau, ông bà sinh được một cô con gái đặt tên là Nguyễn Thị La. Lớn lên nàng nối nghiệp chà. Với đôi bàn tay khéo léo, vải nàng dệt đã bền lại đẹp, ai thấy cũng phải thán phục.

Năm 18 tuổi, nàng kết hôn cùng Trần Thưởng người Hồng Châu, Hưng Yên. Vài năm sau, Trần Thưởng thi đỗ được bổ làm quan coi sóc việc hộ. Với mong muốn được mở mang nghề dệt, chàng xin vua cho lập một phường dệt ở ven Hồ Tây. Nàng La chuyển về đó lo đảm đương việc dạy dỗ dân làng nghề dệt vải. Từ đó, nghề dệt vải ở đây được phát triển, danh tiếng vang xa.

Trong một lần cầm quân ra trận, Trần Thưởng không may tử trận. Được tin chồng, nàng La liền tự vẫn chết theo.

Vua Huệ Tông thương xót cho lập miếu thờ nàng ở phường Nhược Công, phong cho nàng làm Thụ La công chúa. Ghi nhớ công ơn dạy nghề của bà, dân chúng gọi bà là Bà chúa dệt.

Ông tổ nghề nhuộm

Ông tổ nghề nhuộm không rõ tên được thờ ở số 18 phố Thợ Nhuộm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Nghề nhuộm có ở rất nhiều nơi tại Hà Nội như: Hàng Đào, làng Đồng Lầm, Võng Thị. Không rõ cụ thể tên tổ nghề nhuộm. Nghề nhuộm phố Hàng Đào có gốc làng Đan Loan, phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Nghề nhuộm làng Võng Thị có gốc làng Quần Anh, tỉnh Nam Hà.

Ông tổ nghề thêu

Ông tổ nghề thêu là Lê Công Hành, tên thật là Trần Quốc Khái, người làng Nguyên Bì: xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay là thôn Quất Động, xã Hồng Thái, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Ông sinh ngày 18 tháng giêng nǎm Bính Ngọ (1606) mất ngày 12 tháng 6 năm Tân Sửu (1661), từng đỗ tiến sĩ. Trong một chuyến đi sứ phương Bắc, nhờ mưu mẹo và trí thông minh, ông đã học được nghề thêu và nghề làm lọng. Về nước, ông truyền bá nghề này cho dân làng Quất Động và một số làng lân cận như: Đào Xá, Tầm Xá, Hướng Dương... Dân thợ thêu các làng này di cư ra Thǎng Long hành nghề cư trú tập trung tại hai nơi: phố Yên Thái và đoạn cuối phố Hàng Trống (trước kia gọi là phố Hàng Thêu), và rải rác ở các phố Hàng Nón, Hàng Mành, Hàng Chỉ...

Ông tổ nghề đúc đồng

Tổ sư nghề đúc đồng là ông Khổng Minh Không được thờ ở số 5 phố Châu Long, quận Hoàn Kiếm. Trong các tài liệu lịch sử không có tên Khổng Minh Không. Đây có lẽ là dân gian hoà nhập Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không làm một thành Khổng Minh Không. Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không đều được coi là tổ sư nghề đồng của nước ta. Lĩnh nam chích quái có viết về Dương Không Lộ như sau: Ông họ Dương tên Không Lộ, vốn xưa làm nghề đánh cá. Một hôm, ông đang đứng ở bến sông, bỗng thấy có một người hình dung cổ quái, đứng bên đường, nhìn ông rất lâu, rồi cười mà nói: Người là người cõi tiên sao không học đạo mà lại đi câu cá ? Nói xong, liền phất tay áo ra đi. Không Lộ định hỏi thêm thì không thấy đâu nữa. Từ đó, ông bỏ nghề đánh cá vào tu ở chùa Nghiêm Quang - Thanh Hoá lấy tên là Không Lộ thiền sư. Sau đến thời Lý Thánh Tông về tu ở chùa Hà Trạch - Hà Bắc. Ông có pháp thuật cao siêu có thể bay trên không, đi trên mặt nước, sai khiến cả thú dữ, biến hoá muôn hình vạn trạng. Đặc biệt ông rất giỏi nghề đúc chuông nặn tượng.

Một lần ông đi sang Trung Quốc, quyên đồng được hàng trăm vạn tạ, đựng vào một cái bao lớn mà các thuyền phương Bắc không thể chở nổi. Ông bèn hoá phép lấy nón làm thuyền, lấy gậy làm chèo, cứ thế chèo chống, chở đồng về, đúc thành bốn đồ quý (Tứ bảo) gọi là Yên nam tứ quý.

Sự tích của Không Lộ dân gian nhập vào với Minh Không. Điều này còn tìm thấy trong văn bia chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo (Hành Thiện - Nam Hà), chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều - Quảng Ninh), chùa La Vân (Quỳnh Phụ - Thái Bình). Nên sau này ông tổ nghề đúc đồng lúc thì được gọi là Nguyễn Minh Không, lúc thì lại được coi là Không Lộ.

Ông tổ nghề làm bún

Ông tổ nghề làm bún được thờ tại Mễ Trì, Thanh Xuân, Hà Nội.

Bún là một loại thực phẩm được nhiều người Hà Nội ưa thích. Nó góp phần làm phong phú thêm cho nghệ thuật ẩm thực của người Hà Nội. Người Hà Nội có nhiều món ǎn đặc trưng từ bún như bún thang, bún ốc, bún riêu... mỗi món một hương vị khác nhau. Ngày đầu xuân, người dân Hà Nội vẫn lưu truyền tục ăn bún ốc lấy may.

Ngày nay, bún không là một loại thực phẩm của riêng Hà Nội, nhưng bún Hà Nội vẫn nổi tiếng vừa trắng, sợi nhỏ, giòn và dai. Xã Mễ Trì (vùng Kẻ Quánh xưa) có nghề làm bún truyền thống. Bún Mễ Trì được coi là bún ngon nhất "ăn mát môi, trôi mát cổ". Tương truyền ông tổ của nghề này là Hồ Nguyên Thơ, không rõ sống ở đời nào. Ngày nay, người dân Mễ Trì thờ ông ở đình làng. Vào những ngày hội làng, dân làng lại tổ chức hội thi làm bún. Vật phẩm dâng cúng ở đình vào những ngày này cũng không thể thiếu mâm bún.

Tổ sư nghề vàng bạc

Tổ sư nghề vàng bạc là ba anh em họ Trần: Trần Hoà, Trần Điện, Trần Điền sống tại làng Định Công, huyện Thanh Trì vào cuối thế kỷ thứ 6. Ba ông học được nghề này trong một cuộc lưu lạc tại một nước láng giềng khi về đem nghề truyền dạy lại cho dân làng. Sau này thợ làng Định Công di chuyển về Thǎng Long cư trú tại phố Hàng Bạc.

Ngoài ba anh em họ Trần, nghề vàng bạc Thăng Long còn do tổ nghề Nguyễn Kim Lân truyền dạy. Ông là người vùng nào đến nay không xác định được, sau ông đến làng Đồng Xâm, huyện Kiên Xương, Thái Bình: ông dạy nghề cho dân làng Đồng Xâm, sau này một số dân làng Đồng Xâm lên Thăng Long cư trú tại phố Hàng Bạc làm nghề kim hoàn.

Ông tổ nghề làm giấy

Ông tổ nghề làm giấy không rõ họ tên được thờ tại các làng Hồ Khẩu, Đông Xã, Yên Thái, Nghĩa Đô, Hà Nội. Không rõ họ tên tổ nghề. Từ thế kỷ 13, nghề làm giấy đã có tại thôn Dịch Vọng. Sau đó, nghề này lan truyền dần qua các địa phương ven sông Tô Lịch như: Yên Hòa (tục gọi là làng giấy), Hồ Khẩu, Đông Xã, Yên Thái, Nghĩa Đô, trong đó tập trung và phát triển nhất là thôn Yên Thái. Truyền thuyết ghi lại, đầu tiên ông tổ nghề giấy truyền nghề cho dân làng Yên Hòa, rồi lần lượt qua các làng khác.

Tổ sư nghề gốm sứ

Tổ sư nghề gốm sứ Bát Tràng là Hứa Vĩnh Kiều. Hứa Vĩnh Kiều cùng với tổ sư hai làng gốm khác là Đào Trí Tiến làng Thổ Hà và Lưu Phong Tú làng Phù Lãng cùng khởi nghề ở Bát Tràng, sau đi học men gốm tại Thiểm Châu, Quảng Đông, Trung Quốc về truyền nghề cho dân làng.

Ông tổ nghề khảm trai

Ông tổ nghề khảm trai là Nguyễn Kim, người làng Thuận Nghĩa, tỉnh Thanh Hoá sống vào thời Lê Hiển Tông. ông rất giỏi nghề khảm, vì bị sách nhiễu đã lánh nạn ra làng Chuyên Mỹ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây và truyền dạy nghề cho dân làng này. Sau dân làng Chuyên Mỹ di cư ra Thăng Long cư trú tại phố Hàng Khay. Trước kia, phố Hàng Khay có đền thờ ông. Một vài truyền thuyết khác cho rằng tổ nghề khảm là ông Vũ Văn Kim hoặc Trương Công Thành sống vào thời Lý.

Tổ sư nghề quạt

Tổ sư nghề quạt họ Đào, tên nôm là Đầu Quạt, người làng Đào Xá, huyện Ân Tri, tỉnh Hải Hưng. Dân làng Đào Xá sau ra Thăng Long cư trú tại phố Hàng Quạt. Họ lập đình Phiến Thị thờ ông tổ họ Đào ở số 4 phố Hàng Quạt.

Nghề làm quạt là nghề truyền thống của người dân Đào Xá. Đến nay, không ai biết chính xác nghề quạt vùng này có từ bao giờ, nhưng nó gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây.

Quạt của người làng Đào Xá có nhiều loại. Quạt ngà dùng để thờ hay dành cho vua chúa. Loại quạt này thường được trang trí tinh xảo với rồng, lân, phượng... Ngoài ra, còn có các loại quạt giấy, quạt the... Nguyên liệu giấy được dùng là loại giấy bản, giấy dó của làng Yên Thái.

Tổ sư nghề rèn

Tổ sư nghề rèn Hoa Thị (ở xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm - ngoại thành Hà Nội) là ông Nguyễn Đức Tài. Ông người làng Hoa Thị, học nghề rèn của một người tên là Thanh Hoa không rõ người vùng nào, về truyền dạy lại cho dân làng nghề này sau được dân làng thờ làm tổ sư.

Dân làng Hoa Thị vào cuối triều Lê đầu triều Nguyễn tức khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đã vào Thǎng Long lập nghiệp tại phố Hàng Bừa (nay là phố Lò Rèn) và phố Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến). Một số ít tập trung tại các phố Kim Mã, Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng), Ô Cầu Dền, phố Huế (khu vực giao giữa phố Huế và Đại Cồ Việt hiện nay).

Trước kia, thợ rèn Hoa Thị chuyên sản xuất các công cụ phục vụ nông nghiệp như: cày, bừa, liềm, hái, cuốc, thuổng, xẻng, mai, móng... Trong kháng chiến, các thợ rèn ở phố Lò Rèn rèn các loại vũ khí thô sơ phục vụ kháng chiến như: kiếm, mã tấu, mác... và cả nòng súng, cò súng... Hiện nay, trong thời kỳ cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, nhưng sản phẩm rèn của Hoa Thị vẫn được người tiêu dùng chấp nhận. Sản phẩm được ưa chuộng nhất hiện nay là kéo thợ may. Tại phố Nguyễn Khuyến hiện có khá nhiều hàng kéo của thợ rèn Hoa Thị.

Theo website :danangpt.vnn.vn

Người đăng: admin